Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác - câu chuyện về đời và nhạc

06-10-2022, 06:53

LƯƠNG THỊ HỒNG THẮM
(ghi chép lại)

 

Tôi chân thành cám ơn Viện Âm nhạc đã tổ chức buổi gặp gỡ ngày hôm nay, cám ơn những người bạn cao tuổi - những bậc lão thành trong ngành âm nhạc đã bớt chút thì giờ đến tham dự.

 Trong buổi nói chuyện này, tôi không đi sâu vào vấn đề kỹ thuật, học thuật trong các tác phẩm mà chỉ trao đổi như một lời tâm sự của cá nhân.

Tôi sinh năm 1928 tại Gia Lâm. Ngày đó bố mẹ tôi thường lên Hà Nội bán hàng rong, về sau học nghề rồi sản xuất. Khoảng những năm 1940, gia đình tôi thành lập một hãng buôn, trở thành nhà sản xuất với thương hiệu mũ Bắc Lâm (nhãn hiệu độc quyền thời đó).

Vào quãng những năm 1940, tôi học đàn violin từ thầy Lưu Quang Duyệt rồi chuyển sang học piano với thầy Antoine Đô. Thầy Đô chơi đàn organ tại nhà thờ Hàm Long vào các ngày lễ lớn và mở một phòng dạy đàn ở sân nhà thờ, buổi tối thầy đánh đàn ở Dancing (Vũ trường) Ta-ca-ra của Nhật ở Khâm Thiên. Tôi học thầy Đô, ngoài các bài classic favorite (nhạc cổ điển chọn lọc), còn có các bài tango, folk, …

Bạn bè tôi thời đó phải kể đến hội nhạc Bình Minh của nhạc sĩ Minh Tâm. Hội nhạc chủ yếu là những thanh niên trẻ, thường đi làm từ thiện và truyền bá quốc ngữ. Những buổi đi làm từ thiện không sử dụng được piano, nên tôi xoay sang học thêm accordeon. Tôi trở thành một trong số những cây accordeon sớm ở Hà Nội.

Đến tuổi trưởng thành, bố muốn tôi đi tu để làm cha đạo nhưng tôi không theo. Về sau ông lại muốn tôi theo học trường thương mại để kế nghiệp gia đình, tôi cũng từ chối vì tôi thích âm nhạc. Khoảng tháng 11, 12 năm 1944, một người bạn của ông mở Dancing, ngỏ ý mời tôi vào làm và tôi đồng ý. Thế rồi một hôm, một số nhạc công người Pháp mang nhạc cụ đến thử tay Pianist này. Sau khi thử, tôi được ký hợp đồng và Dancing đầu tiên tôi làm là Lucky Star nằm ở Cầu Mới. Lương làm ở Dancing của tôi là 1.200 đồng tiền Đông Dương tương đương với 12.000 Franc/1 tháng.

+Tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp nên Dancing đóng cửa. Tôi xoay sang làm tại Huỳnh Lan Anh, một gánh hát ở rạp Olympia mà bây giờ là rạp Hồng Hà ở chợ Hàng Da. Dưới chính quyền của Nhật, dân mình đói và chết nhiều lắm. Được tuyên truyền, tôi vào Việt Minh, đi rải truyền đơn.

Giai đoạn này tôi đã viết một số tác phẩm: Ở Hiệp Thành có bài Ta theo điệu Tây Kim Thoa với Tư chơi; ở Huỳnh Lan Anh, sau một bài Vọng cổ cũng có thêm Bóng ai qua thềm (đệm piano). Nhưng tôi muốn sáng tác bài bản hơn. Một hôm gặp anh Thẩm Oánh, một nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng lúc bấy giờ, tôi hỏi: “Anh Oánh ơi, tôi muốn sáng tác mà không có thầy hướng dẫn, không có sách”. Anh nghe xong thì kéo tôi vào một quán nước cạnh hồ, anh vừa rót bia vừa giảng. Anh nói “Tao cứ phân tích Sông Danube của Johann Strauss, rồi Rêverie của Schumann, rồi Serenade của Schubert, nói chung cứ 4 nhịp 1 câu. Cuối cùng nó kết ở Tonic (chủ âm), hoặc kết Dominant (át âm). Mày cứ đếm đi, đếm để ra nhiều thứ lắm”. Hết 2 chai bia anh cũng giảng xong. Tôi liên hệ lại những bài học từ thầy Duyệt, thầy Đô, khi bắt vào tác phẩm của Schumann, Schubert thầy cũng phân tích các đoạn, các câu, kết thúc tác phẩm… Tôi “À” lên một tiếng, vậy là giữa thầy Oánh, thầy Đô, thầy Duyệt có điểm giống nhau. Và đấy là bài học vỡ lòng của tôi về sáng tác.

Cách mạng ít lâu thì Tàu (Trung Quốc), Mỹ sang, Dancing lại mở. Tôi làm ở Dancing Moulin Rouge ở Khâm Thiên. Đến khoảng tháng 4, tháng 5 năm 1946, Tàu rút về nước, một ông chủ người Tàu cảm tình với dàn nhạc Moulin Rouge nên ký hợp đồng mời chúng tôi sang làm ở Côn Minh. Khoảng tháng 9, tháng 10, nghe tin Pháp theo quân Anh, chúng tôi bàn với nhau, đấu tranh, xé hợp đồng để đòi về nước. Tôi còn nhớ, khi trở về không có đường bộ, chỉ có đường tàu bay của lính Pháp. Một lần nữa, chúng tôi lại đấu tranh với đại sứ quán Pháp ở Côn Minh để về nước. Kết quả của chuyến về nước đó là về sau có một nhạc sĩ, chiến sĩ Lương Ngọc Trác; một thầy giáo, tác giả của bài hát Bộ đội về làng - Lê Yên; một nhà lãnh đạo âm nhạc đài phát thanh - Lê Lôi; nhạc sĩ, tác giả của Đóng nhanh lúa tốt, Sonata - Nguyễn Văn Quỳ…; nếu không thì còn biệt ở bên Tàu.

Bây giờ tôi xin nói về một số tác phẩm của tôi.

I. Về 5 ca khúc được giải thưởng Nhà nước

1. Ca khúc “Mơ đời chiến sĩ”

Khoảng tháng 9, tháng 10 khi trở về từ Trung Quốc, ban ngày tôi làm cho một phòng trà và buổi tối làm hợp đồng cho Tacara ở Khâm Thiên, đồng thời ký hợp đồng ở Hotel Coloni. Cách đấy mấy tháng tôi gặp anh Thiện Tơ. Anh nhắc: “Này có ký cùng tớ hợp đồng mà không phải làm, ăn lương xong thì kháng chiến”.

 Ngày 19/12 là ngày toàn quốc kháng chiến. Tôi nhớ chiều hôm ấy ra quán, quán đóng cửa mà xe Pháp chạy đầy đường. Tối đến, tình hình trở nên căng thẳng, tôi về phố anh em tự vệ đã tập hợp đông đủ, bảo “Trác ơi, mau lên không đánh nhau đến nơi rồi”. Trời tối thì súng nổ, tôi cũng thành tự vệ chiến đấu. Khi thành lập Trung đoàn Thủ đô, tôi là vệ quốc quân Trung đoàn Thủ đô. Đánh nhau mấy trận, trung đội trưởng chọn tôi làm trinh sát quân báo của đại đội phố Hàng Gai.

Mùng 5 Tết tôi bị thương ở phố hàng Hòm, bom nổ tôi bị mảnh ngói, mảnh gạch bắn vào nên mặc dù vết thương không nặng nhưng chi chít. Tôi được khiêng về quân y Hàng Buồm. Lúc tỉnh dậy tôi tìm được ở đầu giường tờ báo Sao vàng của Vệ quốc đoàn Hà Nội, trong đó có một bài thơ tôi rất thích của tác giả Mạt Tần. Tôi ấn tượng với mấy câu thơ:

“Mùa xuân đi không tiếc nữa đời hương

Em lòng ơi giữ lấy giấc mơ hường

Ai mải miết một trời son với phấn

Ta hùng anh lừng hát tiến lên đường…”

Ngẫm lại mình, “Mùa xuân đi không tiếc nữa đời hương”, năm 1947 mình 19 tuổi đúng mùa xuân rồi, thế nhưng không tiếc cái mùa xuân ấy nữa. “Em lòng ơi”, mình hiểu đây là một mối tình cũng được mà tấm lòng của mình đang mơ ước điều gì thì thôi, bây giờ mơ ước đấy tạm ngừng đi. Rồi “một trời son với phấn”, tôi làm Dancing, làm rạp hát đúng là một trời son với phấn rồi. Thôi, thôi cái trời son với phấn này đi, “hùng anh lừng hát tiến lên đường”. Tôi ngồi viết ở bệnh viện, lúc bấy giờ tiếng súng ở mạn chợ Đồng Xuân nổi rõ lắm, bom nổ rất ghê, khói vào cả bệnh viện Ngõ Gạch (đoạn Hàng Buồm ăn sang Ngõ Gạch) rồi. Chiều ngày 14/2 sắp sắp tối tôi viết xong bài Mơ đời chiến sĩ và hát ngay cho mấy anh thương binh ở bệnh viện Hàng Buồm nghe.

Ngày hôm sau, mấy anh khiêng cáng đến đưa cho tôi quyết định của trung đoàn, phân tôi về công tác tại Ban chính trị trung đoàn, sau đó khiêng tôi về trung đoàn bộ, Ban chỉ huy trung đoàn. Họ hỏi tôi: “Nhận công tác cậu cần gì?” Tôi đề nghị cho tôi cái đàn accordeon. Các anh nhiệt tình đi lùng khắp các phố rồi mang đàn về cho tôi. Accordeon của người ta 80 - 100 nút bass,  cái accordeon của tôi chỉ có 8 nút bass, nó bằng một cái thùng lạc rang của anh Hoa kiều, nhưng thế cũng được rồi.

Sang ngày 17/2 có lệnh toàn trung đoàn rút và trên đội hình rút quân có Lương Ngọc Trác nằm trên cán 4 người khiêng. Ngày 22/2 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đến thăm trung đoàn đã rút lui thành công, tôi được anh em khiêng ra rồi tự chống nạng đi. Trước toàn trung đoàn, Ban chỉ huy giới thiệu các đơn vị, trong đó có giới thiệu Trang Công Lũy, em bé ném lựu đạn chết Pháp; nhà nhiếp ảnh Tiến Lợi, chủ hiệu ảnh Benla photo tham gia chiến sĩ quyết tử, đứng chụp ảnh ở đây; tay Trác, nhạc công ở rạp, tham gia chiến đấu và đang bị thương. Tôi được yêu cầu hát bài “Mơ đời chiến sĩ”. Đây là lần thứ 2, tôi hát bài này trước toàn trung đoàn và Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp.

Sau hôm đó một thời gian toàn trung đoàn được lệnh hành quân lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ, tôi sẽ biểu diễn văn nghệ dọc đường trung đoàn hành quân. Đây cũng là cơ duyên tôi kết nạp được Trần Chất tham gia biểu diễn. Tôi phát hiện ra Trần Chất vào một đêm nằm trong nhà sàn, nghe tiếng hát của anh. Buổi biểu diễn tiếp theo được tổ chức vào đầu tháng 4, sau các báo cáo chính trị, tôi đánh accordeon cùng Trần Chất hát Mơ đời chiến sĩ, Chiến sĩ Việt Nam …. Rồi thành một cuộc biểu diễn lưu động dọc qua các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, chuẩn bị đường cho trung đoàn hành quân. Đến Phú Thọ, Tuyên Quang thì gặp nhóm các anh Văn Cao, Nguyễn Đình Thi… Anh Văn Cao có rủ tôi: “Trác ơi, tao nhận lệnh lên mở Dancing trên biên giới, đây là Dancing tình báo. Mày lên với tao”. Tôi bảo thôi, giờ tôi đã từ biệt son phấn rồi, tôi ở lại bộ đội thôi.

Bài Mơ đời chiến sĩ có 2 luồng dư luận. Có ý kiến cho rằng ca khúc mang tính tiểu tư sản khi không phản ánh được cuộc chiến đấu của Trung đoàn Thủ đô, không hiện thực. Anh Phùng Quốc Thụy trên báo Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh” lại coi đây là tuyên ngôn mà anh Trác từ biệt cuộc đời cũ và bài hát như một lời tâm sự. Một số nhà bình luận âm nhạc như nhạc sĩ Doãn Nho xếp ca khúc vào loại hành khúc trữ tình.

Sau này tôi đọc được trên báo Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh năm 2000, tác giả Phùng Quốc Thụy có thống kê “Những khúc ca xuân” và Mơ đời chiến sĩ là một khúc ca xuân, hình ảnh đón xuân trong chiến đấu. Với tôi, đấy cũng là một kỷ niệm.

2. Ca khúc “Ngày về”

 Ngày về được viết trong khung cảnh các chàng trai Hà Nội trong Trung đoàn Thủ đô hành quân lên Việt Bắc làm nhiệm vụ mang theo nỗi nhớ Hà Nội da diết nhưng không thể trở về.

Cơ duyên tôi viết Ngày về khi được nói chuyện cùng Chính Hữu và bắt gặp bài thơ của anh:

Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu

Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội

Súng tuốt gươm lau, mắt ngời sáng quắc

Nhà siêu mái sập, sát quan cừu ngập lối chân đi”

 Ngày về ra đời vào tháng 8, năm 1947, phổ thơ Chính Hữu - một thi sĩ, chiến sĩ quyết tử thuộc Trung đoàn thủ đô, viết tại Đại Từ (Thái Nguyên), trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn ác liệt và ước mơ trở về Hà Nội còn nhiều hy sinh, gian khổ. Để phản ánh tình hình, khi biểu diễn tác phẩm, tôi chọn một bộ quần áo rách, lấy nhọ nồi bôi trũng mắt, trũng má rồi ra hát.

Về sau gặp anh Nguyễn Xuân Khoát ở Đại Từ, tôi hát cho anh nghe. Anh nói: “Bài này có tính chất một aria opera”. Nhiều năm sau, trong hồi ký của Phạm Duy về Những chặng đường cách mạng, ông viết: “Trong kháng chiến đây là một trong những bài hát mà tôi hát nhiều nhất”. Hay một trong những kỷ niệm của tôi có ông Nguyễn Đức Toàn. Sau khi viết bài Ngày về một thời gian, một hôm có một bản nhạc in, tác giả Nguyễn Đức Toàn - Đêm trăng nhớ Hà Nội, ở dưới có đề “Thân mến tặng Lương Ngọc, tác giả Ngày về”.

Thế nhưng, giống như Mơ đời chiến sĩ, Ngày về cũng là ca khúc có nhiều dư luận đối lập và khác nhau. Dư luận chung thì thấy bài này tiểu tư sản quá, nhất là nó khó hát. Nhà nghiên cứu Hoàng Dương trong bản in Các bài hát về Hà Nội, lại viết: “Ngày về là một sự nối tiếp logic và nhất quán của “Mơ đời chiến sĩ thủ đô huyết hệ” của nhạc sĩ Lương Ngọc Trác. Chùm ba ca khúc này xứng đáng được ghi nhận như những bản anh hùng ca tuyệt vời trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến anh dũng của thủ đô. Ngày về là một bài hát có nhiều đặc tính của một bản aria, một ballade, một ca khúc nhiều tính thanh nhạc chuyên nghiệp. Với âm vực rộng, bước nhảy quãng xa và khó với tính cách tự sự, bi tráng, anh hùng khi thì thầm thì kể lể, khi thì thét lên khí phách, hào sảng…”. 

Một bài tương đối đặc biệt của một nhà nghiên cứu văn học và hội họa Dương Tường. Ông có một kỷ niệm về bài Ngày về rất vui: “Ký ức có nhiều phương tiện để người ta ngược dòng về quá khứ, dai dẳng nhất trong tôi là những hình ảnh về chiến tranh. Đêm nọ tôi mơ một giấc mơ, một giấc mơ thuộc loại mà khi tỉnh dậy cảm thấy như có một vị ngai ngái của hoài niệm. Hình như đó là mùa thu, gió bứt từng chiếc lá ném xuống đất và mỗi chiếc lá khi chạm đất lại bật lại thành một bài ca. Phút chốc trời bỗng đầy những bài hát, những bài hát thời kháng chiến chống Pháp. Tôi thức dậy bồi hồi, xao xuyến. Những bài hát thời kháng chiến chống Pháp có lẽ không chỉ riêng tôi mà cả lớp người ở lứa tuổi tôi, lớp người đã hát cùng Trung đoàn thủ đô.

“Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa.

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng…”

Ngày về của Lương Ngọc Trác, phổ thơ Chính Hữu, những bài hát đó trở thành góc tâm hồn của tôi”.

3. Ca khúc “Lô Giang”

Khoảng tháng 10 năm 1947 địch đánh lên Việt Bắc, nhảy dù Bắc Kạn và tiến quân theo 2 đường: đường thủy và đường bộ dọc sông Lô. Lúc này tôi đang là Trưởng Ban chính trị, tiểu đoàn 54, tức Trung đoàn Thủ đô thu nhỏ. Được lệnh của Chính ủy trung đoàn, tôi và anh Trần Hoàn (phóng viên báo Chiến Thắng của trung đoàn, về sau là đại sứ Việt Nam ở Anh) tạm ngừng công việc ở ban, nhận nhiệm vụ công tác viết bài mừng chiến thắng sông Lô. Đến tiểu đoàn 42, khi đó tiểu đoàn chưa nhập về trung đoàn, tôi gặp toàn người Hà Nội, vũ nữ cũng có, anh chị cũng có, nhà buôn cũng có mà trang bị rất thô sơ: chỉ mã tấu rồi cung nỏ và một số súng. Đến đơn vị pháo binh, khi đó ông Doãn Tuế làm tiểu đoàn trưởng (về sau ông là tư lệnh) có mấy khẩu pháo 75 (hiện tại được trưng bày ở Pháo Đài Láng), lúc bắn không bắn cầu vồng được mà ngắm vào đít pháo bắn như bắn súng cao su. Thế nhưng họ chiến thắng, tôi ngỡ ngàng lắm. Từ biệt đơn vị 42, tôi và anh Trần Hoàn chọn 1 túp lều bên sông Lô vừa ngắm sông Lô vừa viết. Trần Hoàn viết báo, tôi viết Lô Giang.

Chiến thắng sông Lô hiện ra như câu truyện thần thọai: đất trời nổi giận, cả sông cả núi đánh giặc, súng bắn không phải là canon mà là thần công (nó cũ quá nhưng chúng ta chiến thắng nên nó như câu truyện thần thoại). Tôi định hướng viết hợp xướng nên viết Lô Giang có bè cho đội thiếu sinh quân và các nhân viên ban chính trị trung đoàn hát, do vậy bè cũng hạn chế và Lô Giang thành hình.

Sau này tôi sưu tầm được bài báo của Lưu Hữu Phước, ông viết: “Tất cả các nhạc sĩ đổ xô về sông Lô, ca sông Lô, hát sông Lô, yêu sông Lô, thành người sông Lô, những lời ca ấy những điệu hát ấy nổi bật lên trong một số rất nhiều nhạc phẩm của Phạm Duy, Văn Cao, Lương Ngọc, Đình Phúc, Ngọc Liên…”. Ông bắt đầu bình luận về các bài, trong đó bài Lô Giang ông nói: “Hay nhất là những câu nhạc trong một bài ngắn như thế vẫn vừa theo dõi được các giai đoạn chiến đấu trên mặt nước sông Lô, đồng thời lại phản chiếu được tấm lòng người nghệ sĩ trước những cảnh đó. Tuy chỉ bình phẩm cung điệu của Lương Ngọc nhưng tôi không thể không nhắc đến phần hòa thanh của Đinh Ngọc Liên, nhạc trưởng đoàn nhạc binh, phần hòa thanh của Đinh Ngọc Liên là kính chiếu đại, làm nổi bật những tế nhị tài tình trong cấu phong giai điệu của Lương Ngọc. Bài Lô Giang ngắn nhưng ngắn mà tạm đủ là phần nói về nhạc tạm đủ là hơn thừa. Bài Lô Giang ngắn nhưng nó là chiếc khuyên ngọc chạm trổ rất kỹ theo những nét cổ truyền”. Tôi xin cám ơn anh Lưu Hữu Phước nhưng có một chi tiết tôi phải đính chính, khi nhắc đến phần hòa thanh là nhắc đến ông Đinh Ngọc Liên thì chắc là chỉ có ông Đinh Ngọc Liên viết bè, nhưng bè trong Lô Giang lúc bấy giờ do tôi viết.

4. Ca khúc “Trường chinh ca”

Sau khi viết xong Lô Giang ở ven sông Lô cũng là lúc cuộc tấn công lên Việt Bắc của Pháp thua, quân Pháp bắt đầu rút, tôi và anh Trần Hoàn đi ngược theo dòng rút của quân Pháp. Quân Pháp đi đường cái, chúng tôi ngược lên tìm Trung đoàn Thủ đô ở Bắc Kạn.

Trên đường Pháp rút, nhìn ven đường thì nhà cháy, trâu bò chết rồi người chết, mọi thứ xáo xác hết cả. Tôi đi quá Chợ Chu đến bản Lắt, nhìn thấp thoáng bên ven đồi là một đơn vị bộ đội. Tiến vào hóa ra một đại đội của Trung đoàn Thủ đô, họ đang tiến hành tang lễ cho đại đội phó, cũng là anh bạn người Hà Nội của chúng tôi, anh đã hy sinh. Chúng tôi vào dự tang lễ xong thì ngược lên tìm Ban Chính trị, đến lúc gặp Trung đoàn bộ ở bản Lắt, Trưởng Ban Chính trị Hoàng Đức Nghi từ trên nhà sàn bước xuống: “Ôi Trác ơi, Trung đoàn Thủ đô trưởng thành lắm, vừa rồi oánh tơi bời khói lửa mấy trăm cây số, chiến thắng, chiến thắng, vạn lý trường chinh mày ơi, vạn lý trường chinh”. Câu “vạn lý trường chinh” của anh Đức Nghi cứ phấp phới trong đầu tôi. Tôi gặp Trung đoàn Thủ đô thấy khác quá, họ xanh xao, yếu đuối nhưng vẫn vui cười rồi tán chuyện, chuyện chiến thắng, chuyện chiến đấu. Khác với chiến thắng sông Lô bất ngờ như câu chuyện thần thoại, chiến thắng của Trung đoàn Thủ đô nó thật, nó trên một chặng đường dài, có khúc vui khúc buồn. Tối hôm đó tôi viết không phải một ca khúc ngắn mà thành một tổ khúc theo kiểu rondo, đó là Trường chinh ca. Về mặt kỹ thuật, Trường chinh ca tôi viết theo lối phức điệu rồi tập cùng dàn đồng ca nghiệp dư Ban Chính trị và họ tập rất nhanh.

Mấy ngày sau khi hoàn thành Trường chinh ca là đến Tết. Tết năm ấy toàn trung đoàn tập trung đón giao thừa trên một đỉnh đồi cọ, anh em làm một tháp rùa bằng tre rất đẹp và có đống củi rất to. Toàn trung đoàn tập họp, Ban chỉ huy trung đoàn báo cáo chiến công, rồi chúc Tết. Một anh chỉ huy cầm ngọn đuốc bắt nhịp trung đoàn hát Mơ đời chiến sĩ, đứng trên đỉnh tháp rùa tôi nghe ông Trần Chất hát bài Ngày về, rồi cả hợp xướng Ban Chính trị hát Lô Giang  Trường chinh ca. Năm 1998, trên báo, nhạc sĩ Doãn Nho làm tổng kết các bài hát, có đánh giá về thể loại hành khúc thì trong đó Mơ đời chiến sĩ là một hành khúc trữ tình và Trường chinh ca là một hành khúc nghệ thuật không phải cho bộ đội đi đều bước mà là biểu diễn. Hai bài này đóng góp vào kho tàng hành khúc của chúng ta, làm cho ngôn ngữ hành khúc thêm phong phú.

5. Ca khúc Những ô cửa sổ”

Với Những ô cửa sổ, sau giải phóng miền Nam năm 1975, tôi đi công tác đến một số đơn vị miền Nam, bấy giờ đất nước đã thống nhất, cách mạng dân tộc đã hoàn thành, cuộc kháng chiến 30 năm thắng lợi vĩ đại. Đến các đơn vị bộ đội tôi bắt gặp nhiều đơn vị chiến đấu đã chuyển thành đơn vị xây dựng, gọi là đơn vị doanh trại. Tức là những người lính hôm qua lái xe tăng thì bây giờ đứng trên giàn giáo, những anh lính hôm qua vừa bắn tàu bay, bắn đại bác hôm nay lại leo lên giàn giáo… Những suy nghĩ đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi cho đến khi gặp anh Tạ Hữu Yên. Anh đưa tôi một bài thơ của anh, trong đó có những câu tôi rất tâm đắc.

“Bây giờ tiếng súng đã im

Trèo lên giàn giáo anh nhìn tầm cao

Ô cửa này lấp lánh sao

Tay anh gọi gió lọt vào phòng em

Đầy như mơ ước nỗi lòng của anh…”

Và hợp xướng Những Ô cửa sổ ra đời, tôi viết tặng các chiến sĩ binh đoàn xây dựng, những người vừa rời tay súng để xây dựng những ngôi nhà mới, ước mơ một ngôi nhà hạnh phúc. Tôi suy nghĩ: Sau 30 năm cả dân tộc Việt Nam chiến đấu, người lính đã trải qua vào sinh ra tử, bây giờ chiến thắng, những anh lính ấy tìm hạnh phúc như thế nào? Họ có tìm được hạnh phúc không? Người lính là hình tượng của dân tộc. Cả dân tộc đã chiến đấu anh hùng, vậy sau chiến thắng cả dân tộc được hưởng hạnh phúc như thế nào?

Về sau, có nhiều bình luận, Lương Ngọc Trác mở đầu cuộc kháng chiến bằng Mơ đời chiến sĩ, trong 30 năm là ước mơ chiến đấu và ước mơ chiến thắng, sau 30 năm Lương Ngọc Trác có ước mơ mới là cả dân tộc và những chiến sĩ xây dựng hạnh phúc của mình. Vậy, ước mơ trước là Mơ đời chiến sĩ và ước mơ sau là Ô cửa sổ. Sau 5 ca khúc được Giải thưởng Nhà nước, bây giờ tôi xin chuyển sang nói về phần nhạc không lời.

II. NHẠC KHÔNG LỜI

Trong phần này tôi xin giới thiệu một số tác phẩm không lời, cơ duyên và những câu chuyện xoay quanh các tác phẩm của tôi.

1. Vũ kịch “Tưng bừng”

Đầu năm 1945, nhiều nhạc sĩ Việt Nam đã viết nhạc không lời, tôi cũng muốn làm và chia sẻ ý định cùng Minh Tâm. Anh nói sắp tới sẽ dựng một tiết mục múa, do vậy tôi nghĩ đến việc viết vũ khúc cho tiết mục của anh.

Đêm đêm đi làm, nhìn người chết vì đói đầy đường tôi mơ tưởng về một mùa xuân của dân tộc. Khung cảnh mùa xuân có hoa nở, có chim bay, con người được hạnh phúc. Từ những mơ tưởng đó vũ khúc Tưng bừng ra đời, là tác phẩm không lời đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của tôi. Vũ khúc được viết theo nhịp 3 của điệu Valse và ảnh hưởng bút pháp từ Johann Strauss. Sau khi hoàn thành, anh Minh Tâm sử dụng để dựng múa cho nữ sinh Đồng Khánh và đi biểu diễn vài lần cùng đàn piano.

Sau cách mạng, vũ khúc Tưng bừng là một trong những tác phẩm được lựa chọn biểu diễn trong chương trình tại Nhà hát Lớn, nằm trong tuần lễ văn hóa do văn nghệ Hà Nội tổ chức nhân dịp cụ Hồ chuẩn bị đọc Tuyên ngôn độc lập. Tôi lo lắng bởi dịp trọng đại như vậy nếu chỉ đệm piano thì không ổn, múa sơ sài quá nhưng hơn cả suy nghĩ, trong đêm nhạc tác phẩm được dàn dựng như một giao hưởng cùng cây đàn piano cơ đặt giữa sân khấu, bên tay phải là dàn nhạc của bác Đinh Ngọc Liên với khoảng 30 cây kèn, bên tay trái là dàn dây cũng khoảng 30 cây. Có được sự thành công này là một phần công sức của Minh Tâm.

Xoay quanh tác phẩm có nhiều kỷ niệm tôi gom nhặt được. Trong phần tổng kết về âm nhạc thính phòng, giao hưởng Việt Nam của PGS. TS Nguyễn Thị Nhung có nhắc đến một vài hồi ký của Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Minh Tâm: “Ở thời kỳ này, một số nhạc sĩ đã viết một vài tiểu phẩm khí nhạc Việt Nam có tính thể nghiệm như: Võ Đức Thu, Thái Thị Lang, Phạm Đăng Hinh, Nguyễn Xuân Khoát, Tạ Phước, Đinh Ngọc Liên, tiếp đến là Lương Ngọc Trác”.

Hay bài viết của bác Lê Thương trong số báo Âm nhạc tháng Giêng năm 1998 đăng lại một bài của tạp chí Văn học Sài Gòn in năm 1970, tổng kết lại thời Tiền chiến của Tân nhạc, trong đó có đoạn viết: “Đáng lưu ý hơn nữa là việc khởi công hoạt động của Hội khuyến nhạc Bắc Việt do nhạc sĩ Nguyễn Văn Diệp làm Hội trưởng. Nhờ có lực lượng hùng dũng, điêu luyện nên cuối năm 1945, Hội khuyến nhạc Bắc Việt đã ghi được công đầu bằng cuộc đại hòa tấu long trọng vào kỳ Đại hội Âm nhạc năm đó. Bài hòa tấu Vũ khúc Tưng bừng của Lương Ngọc Trác được hoan nghênh nhiệt liệt”. Trong bài viết có phần trung thực của bác, tuy nhiên bác chỉ nói công đầu của Hội khuyến nhạc mà không nhắc đến đoàn nhạc binh hay đoàn quân nhạc, thật ra có 3 lực lượng tham gia: khuyến nhạc, Bình Minh và đoàn nhạc Vệ quốc quân. Tuy nhiên, tôi hiểu bài được in ở Sài Gòn, thời chính quyền Mỹ nên nhiều điều bị hạn chế.

2. Nhạc múa “Trên đường kéo pháo”, “Anh du kích và 6 cô gái Mèo”

* Năm 1958, tôi viết nhạc cho điệu múa Trên đường kéo pháo của Ngọc Canh. Năm đó, khi là Trưởng ban Nghệ thuật của phòng Văn nghệ, nhận thấy văn công quân đội không được huấn luyện, tôi lên kế hoạch mời các chuyên gia hướng dẫn. Do đó, phòng Văn nghệ quân đội mở một loạt các lớp: lớp múa, lớp hợp xướng, lớp chỉ huy, lớp sáng tác… Cuối khóa học tôi có ý định viết một tác phẩm để tổng kết khóa học. Tôi gặp và trao đổi cùng Ngọc Canh, đề nghị viết cho dàn nhạc giao hưởng quân đội Việt Nam, Canh sẽ làm một điệu múa có tính bi kịch anh hùng trên đường chèn pháo, kéo pháo vào Điện Biên thay cho múa từ trước đến nay chỉ mang tính giải trí, múa dân gian và dàn nhạc dân gian, múa sạp…

Kết thúc lớp chuyên gia Mao Vịnh Nhất, ngoài các tác phẩm khác có tổ khúc Dàn nhạc giao hưởng và hợp xướng của Tô Hải, Trên đường kéo pháo của Lương Ngọc Trác, nhạc kéo dài khoảng 10 phút. Về sau tác phẩm của tôi được Đài phát thanh phát vào giờ nhạc không lời.

* Một tác phẩm viết cho múa khác là Anh du kích và 6 cô gái Mèo, tôi viết vào tháng 3 năm 1959 khi đi công tác với đoàn quân đội biên phòng miền Tây. Sau lớp học cùng chuyên gia, tôi thôi Trưởng ban Nghệ thuật về đoàn ca múa cùng anh Đức Toàn. Lên đến Lai Châu tôi nhận được lời đề nghị viết nhạc cho tiết mục múa của Minh Tiến. Trước đó, Minh Tiến cho tôi xem kịch bản Anh du kích và 6 cô gái Mèo và trong khi đoàn ca múa phân tán đi biểu diễn ở biên giới, tôi ngồi ở đỉnh đồi đồn biên phòng Lai Châu để viết. Tôi viết nhạc giao hưởng mang nét hiện đại nhưng vẫn chứa đựng tính dân tộc, tính dân gian. Về sau, tác phẩm được Đài phát thanh phát nhiều vào giờ nhạc không lời và dùng câu mở đầu làm nhạc hiệu giờ phát thanh miền núi. 

3. Nhạc cho vũ kịch “Ngọn lửa Nghệ Tĩnh”

Khi lớp biên đạo Kim Tế Hoàng thành lập, sau khi dàn dựng các tiết mục nhỏ, ông Kim Tế Hoàng có đề nghị Ban Nghệ thuật của tôi làm trước thực tập sang vũ kịch. Vấn đề đầu tiên Kim Tế Hoàng đặt ra là muốn có người viết nhạc, vì thế Kim Tế Hoàng có đi khảo sát các đoàn. Sau khi khảo sát, Tế Hoàng có đề nghị tôi viết nhạc cho vũ kịch và Tổng cục quyết định tôi đi Nghệ An cùng Kim Tế Hoàng.

Dàn dựng vũ kịch, Kim Tế Hoàng trình Tổng cục kịch bản 140 phút với 150 diễn viên. Tôi trao đổi cùng anh Lê Quang Đạo, lo lắng bây giờ Vũ kịch tổ chức, đoàn ca múa đã vét tất cả các diễn viên của đoàn quân khu lên thì vất vả quá. Anh suy nghĩ rồi động viên tôi coi đó là cơ hội thực tập và quyết định của anh là đúng. Từ lớp biên đạo với lực lượng trong và ngoài quân đội đã có bước tiến lớn về chuyên môn, để từ đấy về sau chúng ta có một lớp nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, theo tôi đó là thắng lợi. Bản thân tôi vừa làm đoàn trưởng, vừa viết nhạc không đủ sức nên sau khi cân nhắc tôi mời Huy Thục và Nguyễn Thành cùng tham gia.

Như vậy, múa có chuyên gia Kim Tế Hoàng, nhạc thì 3 anh bạn Việt Nam. Trước khi viết, chúng tôi bàn bạc với nhau khuynh hướng kế thừa dân tộc, dân ca, dân vũ, nhưng đây là đề tài cách mạng - Xô Viết Nghệ An, thành ra vấn đề lớn là tính kịch. Tôi viết xong màn mở đầu rồi tiếp tục sang màn 3, màn mở đầu khi dàn dựng chuyên gia nói tốt, nhưng sang màn 3, đang viết thì tôi phải cấp cứu và quyết định mổ. Tôi nói với 2 bạn: “Cái số mình thế thì 2 bạn ở nhà cứ làm thôi”. Tôi mổ xong, vừa tan thuốc mê, mở mắt nhìn đầu giường thì 2 vợ chồng Kim Tế Hoàng ngồi bảo: “Trác ơi, phần nhạc cậu viết hết rồi, bây giờ anh em đang đợi đấy, về nhanh lên”. Thế rồi chưa tháo chỉ là về, tôi không viết phần 3 nữa mà bắt tay vào viết màn kết thúc. Màn này lấy bối cảnh vào một buổi sáng tinh mơ, ở trại lính Pháp, địch tiến hành xử bắn những chiến sĩ cách mạng. Ngoài phần dàn nhạc với tiếng kèn kết hợp âm nhạc kịch tính, có phần hợp xướng hát khi các chiến sĩ cách mạng bị bắn gục xuống. Hợp xướng bắt đầu bằng giọng bass như tiếng hát từ âm ty vọng về. Như vậy, màn kết thúc có dàn nhạc và hợp xướng.

Khi gần hoàn thành, tôi nhận nhiệm vụ dàn dựng cho đoàn đi Nam Dương, Indonesia từ Tổng cục. Thế rồi đêm ấy 4 giờ sáng tôi viết xong màn, 7 giờ sáng về nhận nhiệm vụ đoàn đi Indonesia. Trong khi dàn dựng cho đoàn đi Indonesia thì Vũ kịch xong và biểu diễn. Sau này, vũ kịch được giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng cho tập thể cả biên đạo, cả âm nhạc… Ngọn lửa Nghệ Tĩnh được đánh giá là một trong những tác phẩm vũ kịch tốt. Trong báo Âm nhạc tháng Giêng, năm 2000 có một tác giả tổng kết 100 sự kiện âm nhạc trong thế kỷ thì vũ kịch Ngọn lửa Nghệ Tĩnh là sự kiện số 63.

III. Một số điều chia sẻ từ tác giả

Tôi xin dừng phần nói về các tác phẩm và xin phép chia sẻ một vài suy nghĩ của mình. Nếu tính 5 ca khúc đạt giải thì 4 ca khúc viết năm 1947, 1948, lúc đó tôi từ bỏ vai trò nhạc sĩ để trở thành anh cán bộ chiến đấu, chính trị viên tiểu đoàn rồi Trưởng Ban Chính trị, ca khúc Những ô cửa sổ viết khi tôi là phái viên của Tổng cục. Ở 4 bản nhạc không lời thì Vũ khúc Tưng bừng tôi viết cũng chưa có tính chuyên nghiệp. Ba cái sau cùng vào những năm 1959, 1960, tôi viết khi đang là Trưởng Ban Nghệ thuật và Trưởng đoàn ca múa.

Thời điểm trường nghệ thuật mời anh em chúng tôi đến nhận giải thưởng Hồ Chí Minh, trong giải tập thể ấy, tôi suy nghĩ bây giờ vũ kịch Tưng bừng được giải Hồ Chí Minh ấy đâu rồi, opera Cô Sao của Đỗ Nhuận được giải Hồ Chí Minh đâu rồi? Giao hưởng Hoàng Việt được giải Hồ Chí Minh đâu rồi? Mà không chỉ riêng vũ kịch mà nhạc kịch, opera và giao hưởng đều không có khán giả. Đấy là những cái hiện đại quốc tế còn những truyền thống của dân tộc, nhà hát Cải lương, nhà hát Chèo ở Kim Mã thì khách đâu? Vắng khách thì thế nào?

Theo Đề cương Văn hóa của Đảng ra đời năm 1943, “Dân tộc khoa học đại chúng”, riêng chữ “Đại chúng” đã cải tạo một lớp văn nghệ sĩ như chúng tôi, những Nguyễn Tuân lên đường, Nguyễn Huy Tưởng, rồi nhạc sĩ, tiệm nhảy… chúng tôi đi vào công chúng để học Chèo, học dân ca, sáng tác những bài ca chiến đấu. Tôi thấy chữ “Đại chúng” trong văn hóa Đảng năm 1943 lớn lắm. Phương châm văn hóa bây giờ hiện đại thế giới, đặc sắc dân tộc nhưng lại thiếu chữ Đại chúng.

 Tôi rút ra kết luận chúng ta đào tạo nghệ sĩ, đào tạo tác giả mà không đào tạo khán giả. Dịp sinh hoạt tại Viện Âm nhạc trước, một anh nhạc sĩ ngồi cạnh ghé tai tôi nói: “tất cả tác giả đều có thể là một Picasso”. Tôi nghĩ ý kiến của anh có phần đúng về phương diện nghệ sĩ, nhưng là nhà lãnh đạo thì phải lãnh đạo Picasso có công chúng. Người nghệ sĩ có quyền là Picasso nhưng người lãnh đạo bên cạnh việc đào tạo những Picasso phải đào tạo người thưởng thức Picasso. Anh đào tạo opera, giao hưởng nhưng không có người thưởng thức thì người sáng tác giao hưởng, opera thành ra cô đơn.

Tôi có đọc một bài báo của Nguyễn Văn Quỳ, bài “Càng lên cao, càng cô đơn”. Tôi nhớ có một phương châm tuyệt vời đã ra đời vào khoảng năm 1950, 1951 phát triển từ khoa học đại chúng ra, tức là: “phổ cập theo hướng nâng cao, nâng cao trên cơ sở phổ cập”. Anh phải vừa phổ cập vừa nâng cao được công chúng và không phải anh cứ đại chúng mãi mà phải tiến lên, phải hướng vào phổ cập để tiến dần từng bước, phổ cập theo hướng nâng cao và nâng cao theo hướng phổ cập. Tôi tâm đắc với phương châm này.

IV. Một vài ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ

* Nhạc sĩ Vĩnh Cát: Như anh Trác nói, thành tựu của anh vào quãng những năm 1947, 1948, sau đó năm 1958, 1960 là nhạc không lời và kết thúc vào năm 1976. Quãng thời gian gần 30 năm, không biết anh bận, anh mải mê điều gì, anh tìm kiếm điều gì làm gián đoạn việc sáng tác, anh có thể thổ lộ không? Tôi muốn hỏi để hiểu hơn những giai đoạn trong cuộc đời người nhạc sĩ?

Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác: Tôi có 3 lý do làm gián đoạn công việc sáng tác. Thứ nhất, tôi làm nghề nhạc nhưng cảm thấy chưa được đào tạo đầy đủ nên cứ viết một thời gian lại thấy mình không đủ sức rồi tạm ngưng. Lý do thứ hai, khi không nằm ở đoàn văn công, hoàn thành tác phẩm tôi lại gửi cho đoàn, tuy nhiên đến khi phụ trách, là Trưởng đoàn văn công tôi không muốn gửi tác phẩm của mình nữa. Tôi nghĩ đoàn sử dụng tác phẩm của mình không khác gì mình giữ quỹ mình tiêu tiền quỹ, do vậy thời gian phụ trách đoàn văn công tôi không còn gửi bài. Lý do thứ 3 có thể mình cũng chưa thực sự là anh tác giả chuyên nghiệp, không phải cứ ngồi vào bàn là viết mà còn viết theo cảm hứng.

 Vấn đề anh Trác nói trong lịch sử thế giới không phải hiếm, như Rossini, ông đã ngừng sáng tác 30 năm trước khi mất hay Sibelius, một nhạc sĩ giao hưởng vĩ đại, có concerto cho Violin khét tiếng, thậm chí ông được hưởng một pension của Nhà nước (được Nhà nước trợ cấp suốt đời để sáng tác), nhưng 20 năm trước khi mất ông cũng ngừng sáng tác. Do vậy, vì sự cố về tâm lý người nhạc sĩ có thể gián đoạn việc sáng tác.

Mỗi nhạc sĩ đều có một cách riêng để viết hoặc tự mình tạo điều kiện để viết, thực tế chất “tài tử” là nhiều. Tôi cũng học qua mấy quyển sách Pháp rồi đi kháng chiến thành ra bản thân cũng không thể giải quyết được hết ý của mình. Sáng tác phải có nghệ thuật nhưng trong thời kỳ kháng chiến viết do bản năng, cảm hứng nhiều và do nhiệt tình cách mạng đốt ra thành tác phẩm.

Các tác phẩm của anh Trác, tôi hát rất nhiều: Mơ đời chiến sĩ, Trường chinh ca… và cảm nhận anh sáng tác bằng cảm xúc. Cảm xúc tốt lành cho anh những suy tư về âm nhạc, đi vào phong cách tôi thích anh ở tâm hồn hào hoa, lãng mạn nhưng đầy trách nhiệm. Cứ đùa nhau là Romantico nhưng rất đáng yêu, nói lệch đi là thời kỳ lãng mạn cách mạng để thấy cái lãng mạn đấy rất đáng quý. Và mỗi tác phẩm của anh Trác cứ đều đều đi lên, chắc chắn, không cần gọt giũa, thể hiện tính cách của anh Trác hào hoa, phong nhã và rất yêu đời.

* Nhạc sĩ Đức Toàn: Trước đây tôi có nhắc đến Tô Hải là người đầu tiên viết cantate của Việt Nam với cantate Biên thùy, nhưng trước đó đã manh nha với: Lô Giang, như Sông Lô của Văn Cao, Du kích Sông Thao. Nó vừa là câu chuyện, vừa là quá trình có tính chất nghề nghiệp phát triển để chúng ta có sự thành công ngày hôm nay.

 Có tư liệu rất hay, hồi Cách mạng tháng Tám, các nhạc sĩ viết bài phải đưa lên Sở Văn hóa (tôi không nhớ rõ) để duyệt. Tôi nhớ ông Diệp (violin) là người duyệt, phải được ông ký mới được in, được phát trên đài. Tôi và Lưu Hữu Phước đều bị trả lại một bài, Lưu Hữu Phước bị ghi về học nhạc, tôi là không cân đối. … Từ những bước sơ đẳng như thế, cho đến nay trải qua quá trình phát triển dài hơi, chúng ta đã chuyên nghiệp hơn nhưng chúng ta chưa xâu chuỗi, thống kê thành tư liệu. Ngành Văn học đã khen thưởng gần 20 nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, cho đến nay tất cả tư liệu đã in hết rồi. Nguyễn Tuân có gì, thậm chí một di tích nhỏ cũng được in và lưu trữ. Ngành nhạc chưa làm được điều đó, muốn tìm thông tin hay viết tư liệu âm nhạc rất khó khăn, một ngành lớn với nhiều công trạng lại không có gì cả. Đây tôi nghĩ các bạn công tác trong Viện Âm nhạc làm sao bảo lưu được các thành tựu âm nhạc qua các câu chuyện, ghi chép qua các phê bình… để nó hiện lên một nền âm nhạc, những bước tiến trong nghệ thuật của chúng ta.

Về các tác phẩm của anh Trác chúng tôi rất thích, cũng như thơ Quang Dũng, thơ Tố Hữu đều phản ánh thực tế. Sau Cách mạng tháng Tám đến trước kháng chiến chống Pháp, thành phần trí thức tiểu tư sản tham gia rất tích cực. Và không thể suy nghĩ tiểu tư sản theo lối tiêu cực bởi như vậy sẽ không có Ngày về của Lương Ngọc Trác, rồi Quê em …, người ta hát, học sinh hát, anh lính hát rất nhiều. Phê bình Quang Dũng, phê bình Chính Hữu, Lương Ngọc Trác tiểu tư sản bởi quần chúng của âm nhạc như thế, không ai khác ngoài tiểu tư sản.

Nói về cảm nhận âm nhạc của Ngọc Trác. Về ngôn ngữ âm nhạc, nó sang trọng và Hà Nội, đấy là đặc tính, nếu gọi là tiểu tư sản nên bỏ đi. Trong âm nhạc, những nét tinh tế đều là tiểu tư sản thì tiểu tư sản ở đây rất đáng quý, tiểu tư sản quá đẹp. Thơ Quang Dũng với những đoàn quân trọc lốc đầu vì sốt rét nhưng vẫn “đêm mơ Hà Nội ráng chiều thơm” tôi thấy yêu vô cùng, bài thơ ấy vẫn để lại dấu ấn mãi trong lòng người Hà Nội. Nhạc của Lương Ngọc Trác tôi nhớ Trường chinh ca, trong rừng sâu ta bước lên đi mà đường đi còn dài, hình ảnh những anh bộ đội trong ngày kháng chiến chúng ta sẽ mãi không quên được. Do vậy cứ đẹp đẽ lại gán với phong cách tiểu tư sản tôi cho không đúng, trong phương diện lý luận là ẩu. Và không biết khái niệm tiểu tư sản nội hàm là gì, những nhà lý luận chuyên nghiệp cần xét lại khi sử dụng khái niệm.

* Nhà biên đạo múa Ngọc Canh: Tôi tham gia quân đội từ năm 1946 cùng anh Trác, những kỷ niệm giữa chúng tôi rất nhiều. Tôi gọi anh Trác là anh xưng em. Anh Trác dìu dắt chúng tôi từ lớp thiếu sinh quân, có thể nói anh là người đầu tiên dạy tôi nốt nhạc, phím đàn accordeon. Về tác phẩm của anh Trác, những ca khúc, những bài hát anh Trác viết được cả Trung đoàn Thủ đô say mê, coi đó là kỷ niệm trong đời chiến đấu của các chiến sĩ thủ đô cũng như chiến sĩ quân đội. Những năm chúng tôi còn ở nước ngoài, những bài ca cách mạng, những bài Mơ đời chiến sĩ, Trường chinh ca… luôn đọng trong tâm hồn chúng tôi, những thiếu sinh quân của ngày xưa. Và cho đến nay, thời gian có đi qua nhưng âm hưởng những bài ca đó vẫn đọng lại trong tâm hồn mỗi con người, đó là giá trị rất quý.

Về anh Trác, tôi được cùng anh cộng tác trong nhạc múa Trên đường kéo pháo viết về anh hùng Tô Vĩnh Diện. Ngày đó chúng tôi mới học sơ sơ, năm 1958 chưa ai dạy biên đạo mà chúng tôi đã tự làm, phần âm nhạc khi trình bày đề cương Trên đường kéo pháo anh Trác nhận viết. Viết xong, chúng tôi dựng múa được mọi người yêu thích và đánh giá cao. Thời kỳ đó Trên đường kéo pháo là một trong những tác phẩm múa để lại ấn tượng và suy nghĩ, chính âm nhạc đã thổi hồn cho biên đạo, âm nhạc dẫn đường cho biên đạo “làm” múa và nó thành công. Về sau anh Trác viết nhạc Du kích Mèo cho anh Tiến tôi thấy hay quá, đầy chất giao hưởng. Tính thơ trong âm nhạc của anh Trác rất đầy đặn, có thể nói là gợi cảm. Với tôi, nhạc sĩ Lương Ngọc Trác là những ấn tượng không thể quên, anh là bậc thầy, là người anh đầy trữ tình, đầy trí lý, anh tỉ mỉ, điềm đạm. Thời học accordeon có biết nốt nhạc nào đâu, anh bảo trên bài thế này từng li từng tí một, hình ảnh đó tôi vẫn nhớ. Và nhân tiện đây xin cám ơn thầy Lương Ngọc Trác đã dạy những bước đi ban đầu. 

Anh hay tâm sự: việc học đều dở dang nên phần viết không được chuyên nghiệp, tôi cho không đúng. Mỗi nhạc sĩ đều có tích lũy và sự tích lũy là đáng quý, không phải anh học có bằng tiến sĩ mới công nhận anh có học. Sự thành công của anh Trác phải có được học, được tích lũy ở nhiều giai đoạn: giai đoạn anh tham gia ban nhạc đánh dancing, đánh classic; giai đoạn đi kháng chiến; giai đoạn học cùng chuyên gia… để những tác phẩm của anh ngày một lớn và hoàn thiện.

Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác: Qua các phát biểu tôi cảm thấy vui, tôi nghĩ đây không phải những phát biểu lý luận mà là những tình nghĩa. Nếu về lý luận còn phải nghiêm khắc hơn với nhau nhưng trong này là tình bạn, tình đồng nghiệp, tôi xin cám ơn tất cả những lời phát biểu vừa rồi.

Theo Nghiên cứu Âm nhạc số 65 tiếng Việt

 

Thêm một trao đổi